Cổng thành Đồng Hới
DẠY CONLấy cho ba cái “đọi” đi con,
Con ngơ ngác “đọi” là gì ba nhỉ?
Ba cười lớn : thì "đọi" là cái chén,
Con cầm dùm thêm cái “rá” cho ba.
Đứng chôn chân miệng con cứ làu bàu,
“Đọi” với “rá” là gì con đâu hiểu.
Gốc QUẢNG BÌNH nhưng con nào có biết,
Tiếng quê mình vui “rứa” đó con ơi.
Và còn nữa “trục cúi” là đầu gối.
“Ót” là gáy con làm sao hiểu nổi?
“Trốc” là đầu càng thêm rối cho con.
Con gái quê ta khi tuổi còn son,
Tiếng Quảng Bình sẽ gọi là “con cấy”.
“Chí” là chấy sống ở trên cái “trốc”,
Thức ăn mốc gọi là “môốc” con à.
Dạy "mi" hoài “răng mi nỏ " nhớ ra.
“Hoọc a rứa” đúng thật là con ngốc.
Con nhoẻn miệng vò tai và bứt tóc
Tiếng quê mình khó học quá ba ơi !
Mấy từ thôi đã kêu đất, kêu trời
Còn nhiều lắm “mần răng mi” thuộc được?
Biết không thể nên con đành xuống nước.
Hè về quê học cũng được nghe ba !
Hiểu ý con ba cất tiếng cười khà,
Tiếng Quảng Bình “nhà tui” hay rứađó.
“Bây” không đẻ ở miền quê nắng gió,
nhưng gốc là từ nơi đó sinh ra.
Dù ở mô hãy nhớ lấy lời ba,
tiếng Quảng Bình gắn với "Ngài" Quảng Bình
“Ngài” Quảng Bình rồi"cụng" về Quảng Bình
Cho con theo để “bày” tiếng quê mình,
Bởi dạy mại, “hắn” vẫn nói linh tinh,
Chê hắn dốt, hắn “mần” thinh “nỏ cại”
Thôi thì cũng tại hắn còn nhỏ dại,
Chấp mần chi khung hắn “hại” nỏ về.
Lỡ mai ni hắn nỏ biết “răng rứa mô tê"
"Hại" khi"nớ" có "ngài" chê, kẻ trách.
Rồi một "bựa" hắn nách mang, tay xách,
túi, va ly chạy lách cách theo “tui”.
Hai cha con với vẻ mặt tươi vui,
Về quê nhé ! rủng rỉnh tiền trong túi.
Cả ngày trời,"đàng" không rồi "đàng" bộ
Về đến nhà hắn"nhoọc" toát mồ hôi.
Ai nói chi cũng vâng dạ cho rồi,
Bởi “nỏ” biết “mô, tê, răng, rứa,hỉ”.
Mấy người “nậy” O, Cậu cùng Dì, Dượng,
Xúm “chắc” vô hỏi hắn thấy mà thương:
“Mới đi về “có nhoọc” lắm"khung mi”
Nhớ ngồi nghỉ một “thí” rồi tắm “hí”.
Để “tau” xuống bếp nấu cho “đọi” cháo,
Cha con “bây” ăn cho khoẻ “con ngài”,
Trong “nớ” về “đàng ngái” lắm “phải khung”?
Dù “có ngái" "tau cụng mần" một chuyến...”
Khổ thân con. Hắn cứ ngồi ngơ ngác,
nỏ hiểu chi cũng gật đại cho rồi.
Gắng lên con dăm bữa nửa tháng thôi,
Con sẽ hiểu hết lời tình nghĩa đó Quê.
Quảng Bình quanh năm mưa, nắng, gió,
Vẫn còn nghèo với nhiều nỗi âu lo.
Nhưng tình người thì chẳng thước nào đo.
Trọn vẹn lắm như câu hò ví dặm .......
nguồn :
****************************************
Sông Hương ngày vua Khải Định băng hà: 6-11-1925
Cầu Roòn,nằm trên QL1A cách đèo Ngang chừng 20km về phía nam và cách Đồng Hới chừng 60km, được biết cầu này do Hoàng thân Xuphanuvông (Vương quốc Lào) thiết kế.
***********************************
Ở đây nói tiếng như... chim
Thuở còn học phổ thông, lũ học trò nghịch ngợm chúng tôi hay đi qua cầu Cống Mười ngay bên làng Diêm Điền. Ở đó các bà người Diêm Điền thường ra mò cua, bắt cá. Chúng tôi đứng trên đường cái, giả giọng trêu chọc, để được nghe các bà... chửi bằng giọng Diêm Điền. Một bà già nổi giận, liền mắng: “Chúng may bà tợn, ba nên ba bồ đao nên tôốc cho ma chết! (Chúng mày ba trợn, bà lên bà bổ dao lên đầu cho mà chết)”.
Lang tùi noi tiếng chìm!
Giọng nói của người Diêm Điền (nay thuộc phường Đức
Ninh Đông, TP Đồng Hới, Quảng Bình) quả thật nghe như tiếng chim hót.
Ngay người làng này cũng “tự hào” xác nhận: lang tùi nói tiếng chìm!
(làng tui nói tiếng chim). Họ nói rất nhanh, lên bổng xuống trầm, lúc
nhấn mạnh, lúc kéo dài.
Ông Hoàng Mạnh Châm - bí thư Đảng ủy phường Đức Ninh
Đông, người làng Diêm Điền - cho biết các âm đầu như s, tr, d được người
dân làng phát âm thành âm th, t, r (‘trăng sao” thành “tăng thao”). Âm l
chuyển sang n, ngược lại n thành l (“Nam Lý” thành “Lam Ní”). Thanh
ngang nhiều lúc họ phát âm như thanh huyền (ba thành bà). Ngược lại,
trong một số trường hợp, đôi khi những chữ có thanh huyền họ phát âm ra
thành thanh ngang (ngày lại nói thành ngay). Cụ Bùi Văn Uy, bô lão của
làng, cho biết chữ có dấu hỏi, dấu ngã là khó nói nhất, nên người dân
thường phát âm chữ hỏi thành ra lơ lớ giữa hoi, hói, hòi, hoặc chữ ngủ
nghe giông giống chữ ngù, ngũ, ngụ... như đang luyến láy một nốt nhạc.
Dân Đồng Hới truyền nhau câu chuyện một ông chồng đưa
cô vợ người Diêm Điền đi khám bệnh. Ra khỏi phòng khám, nước mắt cô rơi
lã chã. Tưởng mắc bệnh gì nặng lắm, anh chồng hỏi mãi cô mới nói: “Họ
hoi lúc tháng đã ằn uống nhi chừa, đê nam xét nghiệm máu. Èm lói nà có
uống nhiêu nần nước tong rôi. Rứa ma họ cứ bóp bụng lói nà đã bị tiêu
chảy. Èm lói nà khồng phải, họ mắng đã đì rà nước tong tong rôi ma con
khồng phải na tiều chảy!”. Nếu không có người phiên dịch, tôi đoan chắc
không một ai hiểu nổi cô gái đang nói gì. Cô nói thế này: “Họ hỏi lúc
sáng đã ăn uống gì chưa để làm xét nghiệm máu. Em nói là có uống nhiều
lần nước trong rồi. Rứa mà họ cứ bóp bụng em nói là đã bị tiêu chảy. Em
nói không phải, họ mắng đã đi ra nước tong tong rồi mà còn không phải là
tiêu chảy”.
Ông Phạm Phước, một người Diêm Điền, kể rằng có cô gái
người làng Diêm Điền đi chơi với người yêu ở làng khác, nói chuyện với
bạn trai bằng giọng Bắc. Trò chuyện một lúc, anh chàng đưa tay ôm cô
gái. Cô gái hốt hoảng bèn xổ luôn một tràng “tiếng Diêm Điền”: “Khồng
được khồng được. Thả tớ rà kẻo vê nha mạ tớ mắng, đánh tớ ù tôốc thì nàm
thao” (không được không được, thả tớ ra kẻo về nhà mẹ tớ mắng, đánh tớ u
đầu thì làm sao)”. Anh chàng không hiểu cô gái nói điều gì. Cô bảo “má
la”, thế mà tưởng là đang chửi mình. Lại có chàng trai người Diêm Điền
hẹn hò với cô gái khác làng dưới ánh trăng, anh chàng nói với cô gái:
“Hồm này tơi thào thừa, tằng tháng thủa, èm he”. Cô gái không hiểu,
tưởng anh chàng muốn chọc ghẹo mình nên giận dỗi bỏ về, khiến anh chàng
phải dịch lại câu nói để “minh oan” cho chính mình. Rằng điều anh muốn
nói là: “Hôm nay trời sao sưa, trăng sáng sủa, em nhỉ”...
Bà Hoàng Thị Hường, năm nay 81 tuổi, cho biết đi ra
khỏi làng thì bà nói giọng phổ thông, nhưng về đến làng là tự dưng nói
bằng giọng Diêm Điền. Nhà bà Hường và nhà hàng xóm Nam Lý chỉ cách nhau
một ngõ nhỏ. “Vầy nhừng quê ài lói giọng quê lấy, khồng có chuyện tháo
tộn qua nại chi hết”- bà Hường nói. Ông Hoàng Mạnh Châm cũng khẳng định:
“Làng vẫn giữ được giọng nói chân chất, lạ lùng của mình, như một nét
riêng của người Diêm Điền vậy”.
Nơi có những bàn tay tài hoa
Người Diêm Điền ngoài giọng nói lạ còn sinh ra nhiều
người tài hoa. Nhạc sĩ Hoàng Sông Hương là người làng Diêm Điền, tác giả
của các bài hát nổi tiếng Tình ta biển mặn đồng xanh, Thành Huế chúng
mình thương, Nhật Lệ trăng huyền thoại... Ông cho biết đã chịu ảnh hưởng
nhiều văn hóa của làng. Nhưng theo ông, cái mà người Diêm Điền giữ được
đến bây giờ và làm cho đời sống người làng phát triển là nghề truyền
thống. Đó là nghề xây và nghề mộc. Ông nội của ông được vua ban là cửu
phẩm nhờ có tay nghề mộc.
Theo các cụ cao tuổi ở làng Diêm Điền, hằng năm làng
vẫn mổ bò cúng ông tổ nghề mộc vào ngày 19-12 âm lịch. Thợ mộc Diêm Điền
từng được vua nhà Nguyễn trưng tập vào Huế làm một số công trình đền,
chùa, lăng tẩm và có người được phong đến cửu phẩm. Nhờ khéo tay, chịu
khó nên đến bây giờ người làng Diêm Điền vẫn theo nghề để tung hoành
khắp thiên hạ, với các sản phẩm tinh xảo như tủ thờ, sạp gụ, nhà rường,
đồ chạm, khảm...
Bên cạnh nghề mộc là nghề nề. Chưa có địa phương nào ở
Quảng Bình có tiếng về nghề này như Diêm Điền. Ông Hoàng Sông Hương nói
nhờ thợ nề làng Diêm Điền mà đô thị Đồng Hới phát triển như ngày nay.
Bàn tay nghề nề của người Diêm Điền quả thật rất khéo, nhất là công việc
chạm khắc lăng, bia, nhà thờ, miếu mạo... Ở làng cũng có ngôi miếu gọi
là miếu Hội thợ nề, hằng năm đều có thờ cúng nghề nề vào ngày 24-11 âm
lịch. Thời Pháp thuộc, ông Bùi Tường làm nhà mát cho một sân vận động
với các kiểu kiến trúc Pháp, sau đó được Pháp tặng mề đay vì tay nghề
điêu luyện. Hiện nay Diêm Điền có đến 70% trong số 1.114 hộ (5.097
người) có người làm nghề nề, và họ đi làm khắp nơi trong tỉnh.
Người làng Diêm Điền có gốc gác từ Thanh Hóa, Thái
Bình... di cư vào Đồng Hới từ hơn 400 năm trước. Sơ khai họ có nghề làm
muối nên mới có tên gọi là Diêm Điền (ruộng muối). Làng nằm trên một doi
đất dài, địa hình như ngón chân một con chim khổng lồ duỗi ra. Nhiều
người nói vui là có lẽ do vậy nên người Diêm Điền mới có tiếng nói tựa
như... chim hót.
Gia phả của các dòng họ làng Diêm Điền cho thấy người
dân ở đây di cư từ phía Bắc vào, mang theo thổ ngữ của vùng đất mà họ đã
sống. Nhưng đã bao đời họ sống giữa lòng thành phố Đồng Hới mà vẫn giữ
được tiếng nói gốc của mình. Khi đi làm ăn xa (như di cư), họ có ý thức
giữ được tiếng nói riêng của mình, nếu không là mất gốc. Ở làng Diêm
Điền còn có yếu tố quan trọng để họ có tiếng nói khác lạ với xung quanh
chính là sự gắn kết cộng đồng rất chặt chẽ.
(Ông Nguyễn Văn Tăng, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Quảng Bình)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm